Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Bệnh động mạch ngoại biên của chi dưới

không bao gồm động mạch vành, các mạch của quai động mạch chủ và các mạch của não. bệnh phần lớn diễn ra do xơ - mỡ, các quy trình viêm đưa đến hẹp, thuyên tắc hay huyết khối.

Bệnh gây ra thiếu máu (thiếu cung cấp máu) cấp hay mạn tính. Các triệu chứng trảo đổi từ đau bắp chân lúc vận động (từ chuyên môn gọi là “đau cách hồi”) cho đến đau thường xuyên cả lúc nghỉ (giai đoạn “thiếu máu chi nguy kịch”).

Bệnh có tiên lượng xấu, tỉ lệ cơn đau tim hay đột quỵ cao hơn 4 - 5 lần so với cộng đồng cùng với nhiều biến chứng hiểm nguy khác như suy thận cấp, nhiễm trùng nhiễm độc, loạn nhịp tim… Tuy vậy tỉ lệ bệnh nhân được điều trị tại Mỹ chỉ là 25%, do phần nhiều bệnh nhân không có triệu chứng.

Bệnh động mạch ngoại biên của chi dưới

Triệu chứng

Bệnh tiến triển qua nhiều giai đoạn:

Đầu tiên là đau ở mông, đùi và/hay bắp chân, xảy ra khi đi bộ hay tập thể dục và ngồi nghỉ thì hết đau. Triệu chứng khập khiễng cách hồinày sẽ nặng dần theo thời gian, có không ít mức độ khác nhau từ khó chịu chút ít cho đến gây tàn tật thực sự. Năm dấu hiệu thực thể (tiếng Anh) đều bắt đầu bằng chữ cái “p”: tê (paraesthesia/ anaesthesia), đau (pain), tái nhợt (pallor), không sờ thấy mạch đập (pulselessness) và liệt chi (paralysis).

Đau cách hồi có thể tiến triển thành thiếu máu chi nguy kịch. Đây là tình trạng nguy ngập nhất của bệnh lý động mạch ngoại biên của chi và được định nghĩa: đau chi cả lúc nghỉ do thiếu máu, đau liên tục đặc biệt tại bàn chân và về đêm, tiến tới xuất hiện các tổn thương loét hay hoại thư của chi do thiếu máu nuôi (mất mô về phương diện sinh học).

Các yếu tố nguy cơ: tuổi tác, hút thuốc, đái tháo đường, quá cân hay béo phì, sống tĩnh tại, cholesterol-máu cao, cao huyết áp, gia đình có người bị xơ - mỡ hay đi khập khiễng.

Tiên lượng bệnh nhân có tỉ lệ cơn đau tim hay đột qụy cao hơn 4 – 5 lần so với cộng đồng cùng với nhiều biến chứng hiểm nguy khác

Chẩn đoán

Đặt ống nghe dọc theo đường đi các động mạch của chi: nghe thấy tiếng thổi (“whoosing” sound) ở nơi động mạch bị hẹp.

Tương tự như đo chỉ số áp suất động mạch khuỷu - cánh tay như tại chi trên, tại chi dưới người ta đo áp suất động mạch chày sau và động mạch mu bàn chân (gần các mắt cá chân) 1 khác biệt to về áp suất giữa 2 vị trí này có thể là báo hiệu tin cậy cho BĐMNB của chi dưới.

Các khám nghiệm cận lâm sàng: siêu âm Doppler, chụp CT mạch máu, chụp động mạch cộng hưởng từ, chụp động mạch cản quang...

Cần phân biệt hai bệnh cảnh hay là hai nguyên do chính của tắc động mạch: thuyên tắc động mạch và huyết khối động mạch. Phân biệt được các chứng này ở thời kỳ đầu rất có ý nghĩa đối với việc điều trị thiếu máu chi cấp tính, vì 2 chứng bệnh này không giống về thực chất và cách điều trị cũng không như nhau nhau.

- Trong thuyên tắc động mạch cấp: 80% các cục thuyên tắc (emboli), phần lớn trường hợp là các cục máu đông, xuất phát từ tim (huyết khối tâm thất sau nhồi máu cơ tim, huyết khối tâm nhĩ tại các bệnh nhân rung nhĩ) và đi đến các chi, đặc biệt chi dưới. 20% còn lại là các cục máu đông hay các mảng xơ - mỡ hình thành tại chỗ nơi các động mạch bị tổn thương (từ các phình mạch hoặc từ các tổn thương xơ - mỡ). Các cục thuyên tắc này tách ra và đi tới các chi cùng nhiều nơi khác, thường nằm tại các chỗ hẹp của động mạch thí dụ như nơi có mảng xơ - mỡ, nơi động mạch phân nhánh…

- Huyết khối động mạch hình thành tại chỗ nghĩa là ngay chính tại động mạch, thường là ở vị trí các thương tổn xơ-mỡ của động mạch. Mở đầu và diễn biến không đột ngột và cấp tính như trong thuyên tắc. Nếu thiếu máu không thật nguy ngập cần được can thiệp ngay thì có thể điều trị làm tan cục máu qua đường động mạch.

Chẩn đoán phân biệt:

- Chẩn đoán phân biệt đau tại chi dưới lúc đi bộ với đau thần kinh tọa và hẹp ống sống, huyết khối tĩnh mạch sâu, các hội chứng chèn ép thần kinh của chi dưới và tổn thương cơ hoặc dây chằng.

- Phân biệt đau cách hồi do tắc động mạch (vascular claudication) với đau cách hồi do nguyên do thần kinh. Tất nhiên cách điều trị hoàn toàn khác nhau. Đau cách hồi do thần kinh gồm 1 nhóm các triệu chứng gây ra do hẹp ống sống gây chèn ép tủy sống hay do hẹp các đường thoát ra của dây thần kinh gây chèn ép các rễ thần kinh ở vùng thắt lưng. Đau cách hồi do thần kinh chủ yếu gặp ở người to tuổi, yếu các đĩa sụn gian đốt sống dẫn đến chèn ép dây thần kinh. Các triệu chứng có thể biến đi chậm hơn so với nguyên do mạch máu và đôi khi phải cần tới vật lý trị liệu hay dùng thuốc. Một số trường hợp, ngồi hay cúi ra trước có thể làm giảm áp lực đè lên các dây thần kinh và làm dịu các triệu chứng.

Điều trị:

Giảm các nhân tố nguy cơ: bỏ hút thuốc, đi bộ (thường là 30 phút mỗi ngày), dùng thuốc và đánh tráo lối sống nhằm giảm cholesterol - máu, huyết áp, đường-huyết.

Bệnh động mạch ngoại biên của chi dướiĐầu tiên là đau ở mông, đùi và/hay bắp chân, xảy ra lúc đi bộ hay tập thể dục

Dùng thuốc, thí dụ aspirin, để phòng cơn đau tim và đột quỵ.

Dùng thuốc để nỗ lự quãng đường đi được, thí dụ cilostazol (Pletal).

Ăn hạn chế các loại mỡ bão hòa.

Điều trị thực thụ: trong nhiều năm hoạt động trước đây là lấy bỏ cục huyết khối hay cục thuyên tắc và làm cầu nối qua chỗ hẹp của động mạch. Gần đây hơn, điều trị làm tan cục máu và các can thiệp nội mạch qua da được lựa chọn.

Điều trị làm tan cục máu qua đường động mạch: đưa 1 catête vào động mạch tới tận cục máu đông, truyền nhỏ giọt các thuốc thường dùng như: streptokinase, urokinase, TPA (tissue plasminogen activator). Dùng streptokinase, tan cục máu trong vòng 48 tiếng. Dùng TPA, tan trong vòng 24 tiếng. Với TPA phun xịt trực tiếp, tan dưới 6 tiếng. Các chống chỉ định chính: đột quỵ mới, rối loạn đông máu, và mang thai.

Các can thiệp nội mạch: tạo hình mạch (angioplasty), bóng kèm các lưỡi dao cắt (cutting balloon) làm rộng chỗ hẹp, bóng lạnh (Cryo Plasty) làm ngừng phát triển mảng xơ - mỡ, đặt stent các loại, laser cắt bỏ mảng xơ - mỡ (laser atherectomy)…

Phẫu thuật: chỉ định cho những người mà can thiệp nội mạch không thích hợp, thường là làm cầu nối.

Tuy vậy, biến chứng và tử vong cũng như tỉ lệ cắt bỏ chi dưới vẫn còn cao. Do đó, bất chấp phương pháp điều trị ra sao, việc chẩn đoán sớm và bắt đầu điều trị sớm là rất quan trọng để cứu chi bị thiếu máu.

PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM

0 nhận xét:

Đăng nhận xét